
Xuất thân của danh sĩ Bùi Viện
Bùi Viện là người làng Trình Phổ, tỉnh Nam Định (nay là Trình Trung, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình), ông sinh ra trong gia đình nhà Nho. Năm 1864, ông đỗ Tú tài. Năm 1868, ông dự kỳ thi Hội và đỗ Tam trường tức Cử nhân.
(Danh nhân Bùi Viện - người tạo ra quân tuần dương đầu tiên)
Bùi Viện ở Kinh đô và có cơ hội quen biết với những nhà cải cách như Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Trường Tộ, Đặng Đức Thuận.
Năm 1872, Bùi Viện giúp Lê Tuấn ra bắc đánh dẹp dư đảng Thái Bình Thiên Quốc là quân Cờ Đen và quân Cờ Vàng, lập nhiều chiến công. Sau đó ông giúp Doanh điền sứ Nam Định là Doãn Khuê xây dựng cửa bể Ninh Hải (tức Hải Phòng ngày nay).
Bùi Viện lãnh trọng trách xây dựng bến Ninh Hải thành thương cảng (tiền thân của cảng Hải Phòng sau này), vừa lo thủy quân chống lại hải tặc.
Cướp biển khống chế toàn bộ vùng biển
Năm 1873 vua Tự Đức được các quan hộ giá ra chơi ở cửa biển Thuận An thì có 9 chiếc tàu buồm chở hàng của Triều đình từ Bắc kỳ vào Huế.
(Thủy quân nhà Nguyễn trong sách sử)
Đột nhiên ngoài khơi có 2 chiếc Tàu ô (hải tặc Trung Quốc) nổ súng tấn công, tàu nhà Nguyễn không chống cự được phải tháo chạy, 2 chiếc tàu hàng bị quân Tàu ô cướp mất. Chứng kiến điều này, vua Tự Đức thấy rõ sự yếu kém của thủy quân. Bùi Viện dâng tấu biểu lên Vua với nội dung đề xuất: đánh giặc phải đánh ngoài biển, biến những đội tuần dương thành thủy quân. Ông đề nghị cho thành lập Tuần dương quân. Vua chuẩn y tấu biểu của Bùi Viện, đồng thời cử ông ra nước ngoài tìm cách cầu viện.
Hai lần sang Mỹ cầu viện
Sau 2 tháng lênh đênh trên biển, vào tháng 8/1873, Bùi Viện đến Hương Cảng, lúc này đã là thuộc địa của Anh và là đầu mối giao thương giữa châu Á và phương tây. Tại đây, Bùi Viện gặp gỡ với Lãnh sự Hoa Kỳ và ngỏ ý muốn được giúp đỡ. Lãnh sự đồng ý giúp và viết thư giới thiệu với một người ở Hoa Kỳ có thể giúp ông gặp Tổng thống.
Bùi Viện trở về nước để trình vua Tự Đức, rồi không rõ vì sao mà Bùi Viện phải giả quốc thư và tự chế bộ quan phục hàng tam phẩm để đi Hương Cảng.
(Danh nhân Bùi Viện đến Mỹ để xin quân cứu viện)
Từ Hương Cảng, Bùi Viện đến Mỹ, trên đường đi có qua Yokohama (Nhật Bản). Tại Nhật, ông tìm hiểu thì thấy đất nước này mới mở cửa nên chưa đủ mạnh để có thể giúp mình. Ông xuống tàu đến San Francisco (Hoa Kỳ). Tại đây ông phải mất một năm nhờ vả mới gặp được Tổng thống Ulysses Grant.
Dù phía Mỹ đã đồng ý giúp đỡ, nhưng Bùi Viện lại sợ tội giả mạo quốc thư, nên nói rằng đã không mang theo quốc thư nên hai bên không ký được một cam kết nào. Vì thế Bùi Viện phải về nước tâu lại tình hình với Vua.
Sau khi nghe Bùi Viện bẩm báo, vua Tự Đức mới đồng ý cử ông làm chánh sứ, mang quốc thư cùng đầy đủ giấy tờ ngoại giao. Bùi Viện lại một lần nữa có mặt ở Hoa Kỳ vào năm 1875. Thế nhưng lúc này cuộc chiến Mỹ – Pháp ở Mexico đã chấm dứt nên Mỹ cũng từ chối giúp Đại Nam chống Pháp.
Cầu viện thất bại, Bùi Viện trở về nước, ông được Triều đình cử giữ chức Thương chánh tham biện rồi chuyển sang Chánh quản đốc nha Tuần hải.
Quân đội tuần dương ra đời
Tuy cầu viện không được, nhưng Bùi Viện đã tận mắt chứng kiến hải quân hùng mạnh của phương Tây, ông cũng muốn xây dựng một đội tuần dương quân hùng mạnh. Để xây dựng được quân đội tuần dương, Bùi Viện phải tự xoay xở. Ông nghĩ tuần dương quân phải có nguồn thu để tự túc, tránh phụ thuộc vào Triều đình.
Thời kỳ này, thương mại trong nước chủ yếu vẫn là đường biển, do đường bộ chưa phát triển như ngày nay. Tuy nhiên vùng biển bị hải tặc Tàu ô khống chế, khiến việc thông thương đường biển bị ngưng trệ. Vì thế Bùi Viện tổ chức cho Tuần dương quân bảo vệ các lái buôn, vận tải các chuyến hàng cho Triều đình để có nguồn thu.
(Ảnh vẽ thuyền chiến, thuyền buồm, thuyền chỉ huy dưới thời vua Tự Đức.)
Bùi Viện chủ trương xây dựng quân đội tuần dương tinh nhuệ. Lính được tuyển phải giỏi chứ không quan trọng nhiều, phải là những người đi biển quen với sóng gió, địa hình. Ngoài ra cũng tuyển chọn một số cướp biển nếu đồng ý về với Triều đình. Binh lính được tuyển là dựa vào chính sách đãi ngộ chứ không thúc ép bắt phải đầu quân.
Tuần dương quân được xây dựng gồm 200 tàu chiến và 2000 quân thiện chiến, được huấn luyện và trả lương đầy đủ, được chi làm 3 hạng là thượng, trung, hạ.
Hiểu rằng một đội quân được xây dựng từ dân chài và hải tặc, nếu không có kỷ luật nghiêm minh thì không thể dùng được. Vì thế bên cạnh chế độ đãi ngộ, Bùi Viện cũng đưa ra trách nhiệm và kỷ luật nghiêm khắc. Tuần dương quân còn non trẻ nhưng đã nhanh chóng có được chiến công:
Tháng tư năm 1878, quân ta giao chiến với giặc Tàu Ô ở Hà Tĩnh, dùng hỏa công đốt tàu địch khiến chúng phải chạy trốn, tịch thu một chiến thuyền cùng lương thực đạn dược và bắt được 18 tên cướp. Đến tháng 5 cùng năm, quân ta lại giao tranh với địch ở Thanh Hóa trong khi hải phỉ đang cướp một tàu buôn. Quân ta truy kích địch đến tận đảo Hải Nam (Trung Hoa), tịch thu một chiến thuyền và đạn dược, khí giới. Nhờ hai chiến công đó, dân chúng cảm thấy tự tin hơn nên các thương cảng trở nên sầm uất, tàu thuyền ra vào buôn bán ngày một nhiều. Một thời gian sau, các chi điếm cũng được mở tại Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam. Trên bộ, Bùi Viện cho xây lại những pháo đài, bố trí súng đại bác để canh phòng mặt biển.
Những chiến thắng khiến các thương nhân tin tưởng hơn, giao thương náo nhiệt trở lại, các lái buôn tin tưởng khi có quân đội tuần dương hộ tống trong mỗi chuyến hàng, các thương cảng cũng trở nên sầm uất.
Trong khi tuần dương quân đang phát triển mạnh mẽ thì ngày 1/11/1878, Bùi Viện đột ngột qua đời ở tuổi 39. Bùi Viện mất, quân đội tuần dương không còn người đứng ra tổ chức cũng dần dần tự giải tán, đây là một điều thật đáng tiếc.