Nhà bác học lỗi lạc Michael Faraday
04.12.2020
4696
Michael Faraday (1791-1867) là nhà hóa học và vật lý học người Anh, có công đóng góp cho lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa học.
Chân dung của Michael Faraday, phác họa bởi họa sĩ Thomas Phillips. Ảnh: Wikipedia.
Từ cậu bé đóng sách nghèo ham học
Michael Faraday sinh ngày 22/9/1791 ở Newington Butts (ngoại ô Luân Đôn), trong một gia đình nghèo có bố làm nghề thợ rèn. Từ nhỏ, cậu bé Faraday đã tỏ ra thông minh và hiếu học nhưng phải sớm nghỉ học để phụ giúp gia đình.
Ở đó, cậu say sưa đọc đủ loại sách, đặc biệt về triết học, vật lý học và hóa học, thử làm những thí nghiệm mô tả trong sách và muốn được đi sâu vào khoa học.
Faraday thích thú đi nghe những buổi nói chuyện, ghi chép đầy đủ, đóng lại thành tập sách đẹp. Cảm kích trước lòng hiếu học của chàng trai, nhà bác học Humphry Davy (thuộc Học viện Hoàng gia và Hội hoàng gia London) nhận cậu làm thư ký rồi làm phụ tá phòng thí nghiệm, năm 1815 cử làm trợ lý nghiên cứu.
Từ năm 1816, Faraday độc lập nghiên cứu khoa học, lúc đầu là hóa học, sau đó là điện động lực học. Là người xuất thân từ môi trường công nhân, bằng con đường tự học, không trải qua các trường đại học mà tiến đến đỉnh cao của khoa học, Faraday không bị ràng buộc bởi những định kiến có sẵn.
Đến nhà bác học thiên tài không bằng cấp
Năm 1816, lần đầu tiên Faraday viết một luận văn khoa học dưới sự chỉ đạo của giáo sư Davy. Chỉ trong 2 năm sau đó, ông tiếp tục có tới 17 bài luận văn phân tích Hóa học. Từ năm 1818 đến năm 1823, trong quá trình nghiên cứu để phục chế thép, Faraday đã sáng tạo ra phương pháp phân tích kim loại.
Ảnh chân dung vợ chồng bác học Faraday. Nguồn: Henry Dixon & Sons Ltd.
Năm 1824, Faraday được bầu làm hội viên Hội Khoa học Hoàng gia London và bắt đầu giảng dạy tại Học viện Hoàng gia Anh.
Năm 1825, Faraday bắt tay vào việc nghiên cứu loại khí dùng để chiếu sáng cho thành phố London. Loại khí này được đặt tên là khí Clo. Cũng trong năm này, Faraday được giao trách nhiệm chỉ đạo phòng thí nghiệm.
Giai đoạn năm 1830-1839 là thời kỳ mà Faraday đạt được nhiều thành quả khoa học nhất. Ông bắt đầu nghiên cứu vật lý mà cơ bản là phần điện học hiện đại.
Vào năm 1831, ông phát hiện ra rằng nếu một nam châm chuyển động ngang qua một vòng dây điện khép kín thì một dòng điện sẽ chạy trong dây trong thời gian nam châm chuyển động qua. Hiệu ứng này gọi là cảm ứng điện từ. Và sự khám phá ra định luật tạo ra hiệu ứng này (định luật Faraday) được công nhận là thành tựu cá nhân vĩ đại nhất của Faraday.
Năm 1833, Faraday được cử làm giáo sư hóa học ở Học viện Hoàng gia thay thế giáo sư Davy. Cũng chính năm này Faraday đưa ra lý thuyết và hiện tượng điện phân, đặt cơ sở lý luận cho các ngành công nghiệp điện - hóa. Ông phát biểu về các định luật định tính, định lượng. Chính các từ: "điện phân", "điện cực", "Ion" là do ông đặt ra.
Năm 1838, Faraday tiếp tục nêu ra hai khái niệm: từ trường điện, đường sức.
Năm 1843, Faraday đưa ra lý thuyết về sự nhiễm điện bằng cảm ứng.
Năm 1844, Faraday được viện Hàn lâm Khoa học Paris công nhận là người kế tục Dalton trong số 8 thành viên nước ngoài của Viện.
Năm 1846, ông khám phá ra rằng năng lượng tĩnh điện được định vị trong các chất điện môi. Khám phá này là tiền đề cho sự xuất hiện lý thyết điện tử của Maxwell sau này.
Ngoài thời gian dành cho khoa học, Faraday còn là người thầy xuất sắc. Ông có trách nhiệm cao và rất quan tâm đến phương pháp giảng dạy phải thực nghiệm để xây dựng hình tượng trực quan. Ngày nay, Học viện Hoàng gia Anh vẫn duy trì những nguyên tắc giảng dạy mà Faraday đã đề ra bằng kinh nghiệm và lòng tận tâm với công việc của ông.
Những năm cuối cuộc đời
Ngày 20/3/1862 là ngày cuối cùng đánh dấu công việc nghiên cứu của Faraday. Trong cuốn sổ ghi kết quả nghiên cứu của ông người ta đọc được con số thí nghiệm cuối cùng của ông: 16041.
Mùa hè năm 1867, Faraday ốm nặng, ông bị điếc và mất trí nhớ, nhưng nhìn ông, người ta vẫn cảm thấy ông đang suy tưởng như cả đời ông chưa bao giờ ngừng suy tưởng.
Ngày 25-8-1867 là ngày nhà bác học vĩ đại Faraday từ giã cõi đời. Ông ra đi để lại cho toàn nhân loại một phát minh bất tử, một phát minh mang tính bản lề cho mọi phát minh của loài người sau này. Như lời nhà khoa học Helmholtz ngưòi Đức đã nói: “Chừng nào loài người còn sử dụng đến điện, thì chừng đó mọi người còn ghi nhớ công lao của Michael Faraday”.
Bài viết được tham khảo từ Wikipedia
Tin chọn lọc khác