Bà Triệu lớn lên khi nước ta đang bị nhà Đông Ngô đô hộ. Theo truyền thuyết thì bà sinh năm 226, quê ở làng Quan Yên, huyện Nông Cống, quận Cửu Chân, tức là làng Yên Thôn, xã Định Công, huyện Yên Định, Thanh Hóa ngày nay.
Cha mẹ mất sớm, bà ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Trung Sơn. Theo sách Thanh Hóa kỷ thắng của Tổng đốc Thanh Hóa là Vương Duy Trinh, soạn đầu thế kỷ XX, thì bà Triệu tên húy là Trinh, tiểu tự là Triệu Ẩu.
Bộ sử triều Nguyễn Khâm định Việt sử thông giám cương mục, khi chép đến chuyện Bà Triệu, đã giải thích về tên tự Triệu Ẩu của bà như sau: Chữ Ẩu trong tiếng Hán có nghĩa là tiếng gọi tôn kính các bà già, như bà mẹ đại thần nhà Hán được tôn gọi là Vạn Thạch Ẩu, còn nghĩa thứ hai có nghĩa là người bảo vệ nhi đồng. Do đó, đời sau gọi bà là Triệu Ẩu mà không gọi tên húy là tỏ lòng tôn kính, coi bà là bậc nữ lưu tôn quý.
Theo Thanh Hóa kỷ thắng, bà 20 tuổi rồi mà chưa lấy chồng, có chí lớn mưu lược, thường đem của cải nhà mình ra đãi khách, chiêu tập bạn bè, số lượng có tới vài nghìn người, đều là trai tráng đương thời. Khi có người hỏi chuyện chồng con, bà đã có câu nói nổi tiếng: "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển đông, làm cho trời yên biển lặng, cứu vớt dân lành, chứ đâu giống như người đời cúi đầu khom lưng làm tỳ thiếp cho người!".
Do đó, khi chứng kiến quan lại nhà Ngô tàn ác với nhân dân ta, bà cùng anh khởi binh chống lại. Về cuộc khởi nghĩa của bà, Đại Việt sử ký toàn thư chép theo sử nhà Ngô rằng: Năm 248, người Cửu Chân lại nổi lên đánh hãm thành ấp, châu quận rối động. Vua Ngô cho Hành Dương đốc quân đô úy Lục Dận làm Thứ sử kiêm Hiệu úy. Dận đến nơi, lấy ấn tín hiểu dụ, nhân dân ra hàng phục đến hơn 3 vạn nhà, trong châu lại yên.
Sau đó, có người con gái ở quận Cửu Chân là Triệu Ẩu hợp quân đánh cướp quận huyện, Dận dẹp yên được.
Sách Giao Chỉ chí của Trung Quốc cũng chép: Năm 248, trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái em họ Triệu, không lấy chồng, họp đảng cướp các huyện trong quận, thường mặc áo ngắn sắc vàng đi guốc gỗ, ngồi đầu voi đánh nhau.
Núi đây là núi Nưa, nay ở xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn. Điều đặc biệt là tại chân núi Nưa, năm 1961, đã phát hiện một kiếm ngắn bằng đồng, lưỡi dài 4,5 cm, chuôi dài 18 cm, cán kiếm khắc hình một người phụ nữ chống hai tay vào hông. Nhiều người cho rằng, bảo vật thời kỳ đồ đồng Đông Sơn này chính là kiếm lệnh của Bà Triệu trong cuộc khởi nghĩa oanh liệt của bà.
Sau khi anh hy sinh, bà Triệu Ẩu được quân lính tôn lên làm thủ lĩnh, xưng là "Nhụy Kiều tướng quân".
Cầm giáo đánh hổ dễ, đối mặt vua bà thì thực khó
Lúc đầu, quân Ngô coi thường, vì thấy bà chỉ là phận gái, liễu yếu đào tơ, nhưng khi lâm trận thấy Bà luôn thân chinh đi đầu, chỉ huy quân lính, đánh giặc như vào chỗ không người, chúng lo sợ, không dám đối đầu, thấy bà xuất hiện thường bỏ trốn.
Truyền thuyết dân gian cho biết, sau khi không đánh lại được quân đội của viên tướng Lục Dận, bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc), huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa.
Hiện nay, ở núi Tùng vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc) là đền thờ bà.
Những hoạt động tưởng niệm bà ở đền thờ diễn ra từ ngay những ngày Tết Nguyên đán hằng năm, nhưng lễ lớn nhất được tổ chức vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), là lễ giỗ bà với những nghi thức long trọng nhất.