Từ xưa người Việt vẫn không khỏi tự hào về biết bao con người làm nên ‘bảng vàng chữ nghĩa’. Nhưng chuyện từ một kẻ ăn mày mà trở thành tiến sỹ thì thật ít ai ngờ! Không chỉ là hình tượng văn chương lịch sử, đó còn là chuyện đời có thật của những vị tiến sỹ Việt rất đáng khâm phục và ngợi ca.
Tống Trân
Tống Trân là một anh chàng sinh ra trong nghèo khó, cha mất sớm, phải dắt mẹ đi ăn xin năm cậu 8 tuổi. Một lần, dừng trước của nhà một phú ông để xin ăn, tiểu thư nhà này thương tình mang gạo ra cho. Kể từ ngày ấy, tiếng sét ái tình không ngờ đã đánh đổ trái tim nàng Cúc Hoa, nàng chót đem lòng yêu thương Tống Trân.
Cha nàng thấy điều đó là một nỗi sỉ nhục cho một gia đình quyền thế, hết sức phản đối. Thế nhưng, càng phản đối bao nhiêu thì lại càng không thể nào ngăn nổi nàng bấy nhiêu… Tức quá, nên họ đành đuổi nàng ra khỏi nhà. Nàng theo Tống Trân sống cuộc đời nghèo khổ, lo phụng dưỡng mẹ chồng và giúp chồng ăn học.
Trời đúng không phụ người tài, Tống Trân năm ấy lên kinh thi đỗ trạng nguyên, vua Lê muốn gả con gái cho nhưng chàng từ chối, rồi sau đó phải đi xứ sang nước Tần. Làm sứ giả sang Trung Quốc, bị vua Tần khinh thường nhưng nhờ tài năng xuất chúng của mình, Tống Trân đã làm vua Tần phải nể phục và muốn nhận làm rể nhưng một lần nữa chàng trai chối từ.
Ở quê hương, Cúc Hoa một dạ nuôi mẹ già, chờ chồng. Bị cha mình bắt phải lấy viên Đình Trưởng trong làng, nàng không chịu đành lên núi thủ tiết một lòng với chồng. Thần Sơn Tinh thấu rõ tình cảnh, hóa phép thành mãnh hổ sang nước Tần để đưa thư của Cúc Hoa cho chồng. Tống Trân dâng bức thư ấy lên vua Tần, nhà vua cho chàng về nước trước kỳ hạn. Vậy là Tống Trân trở về quê hương, vợ chồng, mẹ con gặp mặt, đoàn viên sum vầy, vui mừng khôn tả.
Tống Trân – Cúc Hoa là một câu chuyện khá hấp dẫn được diễn tả bằng hình thức thơ Nôm rất gần gũi. Chuyện đi vào lòng người bởi cái cốt nhẹ nhàng mà thâm thúy, giản dị mà sắc nét, nghe như đang kể về chuyện đời chuyện người hiện hữu quanh ta, để rổi cho người đọc niềm xúc động dào dạt.
Ít ai hay, nhân vật Tống Trân trong câu chuyện đó lại là một hình mẫu có thực của một ông tiến sỹ Việt triều Hậu Lê mang tên Quản Phác, quê ở làng Đại Hội, xã Tân Phong, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam (nay là thôn Thuỵ Bình, xã Tân Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình).
Cũng giống như Tống Trân, Quản Phác xuất sinh trong một gia đình bần hàn, mẹ cha mất sớm, còn lại hai chị em phải đi xin ăn khắp nơi. Một ngày tình cờ hai chị em gặp một người Tiến sỹ tốt bụng mang tên Vũ Đức Lâm tại làng Mộ Trạch, huyện Đường Hào, xứ Hải Dương. Vị Tiến sỹ này làm quan dưới triều Lê Thánh Tông, đến tuổi trí sỹ thì về quê dạy học, nuôi dưỡng người tài.
Gặp được ông, quả là hai chị em duyên ăn mày duyên phận không hề nhỏ. Ông nhận nuôi hai chị em và cho ăn học tử tế. Biết ơn cưu mang của vị hiền nhân, chị em Quản Phác học hành chăm chỉ, đồng thời cũng siêng năng giúp việc gia đình. Càng về sau, câụ bé Quản Phác ngày càng được yêu mến bởi sự chịu thương chịu khó và tinh thần ham học hỏi của mình và được nhận làm con nuôi vị tiến sỹ. Vũ Đức Lâm đổi tên Quản Phác thành Vũ Dương và hết lòng dạy dỗ đứa con nuôi của mình.
Không phụ công sức dạy dỗ của cha nuôi, Quản Phác học hành ngày càng tấn tới, đến tháng 2 năm Giáp Thìn (1484) triều đình mở khoa thi Hội cho sĩ nhân cả nước, Quản Phác ứng thí và đỗ tiến sỹ, là niềm vinh hiển hiếm thấy trong số ít ỏi người đỗ đạt thời bấy giờ.
Năm ấy, cùng với việc dựng bia khoa thi này, vua Lê Thánh Tông còn cho dựng 9 tấm bia khắc tên những người đỗ trong 9 khoa thi Hội trước đó được tổ chức kể từ khi nhà Hậu Lê được thành lập, trong đó có Quản Phác.
Sau khi thi đỗ, Quản Phác làm quan trải rộng trên nhiều chức vụ khác nhau, sau được bổ giữ chức Hiệu lý ở viện Hàn lâm, rồi thăng làm Hiến sát sứ Kinh Bắc chuyên lo việc án tụng. Vốn người chính trực, ông công khai minh bạch xét xử tất cả các vụ án. Một vị tiến sỹ xuất thân từ chốn bần hàn, cơ cực nhưng ông mang một tấm lòng hướng thiện, luôn nghĩ cho dân cho nước để làm đúng phận sự và chức trách của mình. Bởi thế, không ngẫu nhiên gì mà người đương thời ca tụng ông với hai chữ “hiền đức, công minh”.
Bùi Tất Năng
Đó là chuyện đời của Bùi Tất Năng, cậu bé được nuôi lớn bằng nghề quét rác của người cha ruột tại làng Dục Linh (tên Nôm là làng Lầy) xã Dục Linh, tổng Địa Linh, huyện Phụ Dực, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Vì gia cảnh quá nghèo, nên khi bố cậu mất, một thầy địa lý vì thương cảm hoàn cảnh đã chọn cho một ngôi đất phát ở cánh đồng Mục để chôn cất.
Cuộc sống hành khất của hai mẹ con Bùi Tất Năng từ đó bắt đầu sau khi lo xong việc hậu sự cho người cha. Một ngày nọ, vào buổi chiều tà, hai mẹ con vì đói quá đánh bạo vào xin ăn ở nhà quan Tả thị lang bộ Lễ tên là Đỗ Nhân An ở làng An Bài (tên Nôm là làng Bệ) cùng tổng Địa Linh (nay thuộc thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Nhà họ Đỗ vốn nổi tiếng là danh gia vọng tộc, nhiều đời con cháu đỗ đại khoa, cả Đỗ Nhân An cũng từng đỗ Tiến sỹ năm Giáp Thìn (1544).
Chuyện kể rằng đêm hôm trước, ông mơ thấy thần hiện ra nói: “Ngày mai nhà có quan Nghè tới chơi“. Hôm sau, Đỗ Nhân An sai gia nhân dọn dẹp nhà cửa chờ đợi mãi, đến gần tối mới thấy có người đến, không phải ai khác lại là hai mẹ con nhà ăn mày vào xin ăn.
Như một sự an bài, họ Đỗ nhận Bùi Tất Năng làm con nuôi khiến người trong nhà không hiểu nổi lý do vì sao. Ông còn đổi tên cậu bé thành Đỗ Kính, yêu quý như con đẻ và cho ăn học đàng hoàng, tử tế. Đúng như cái nhận định của ông trước đó, Bùi Tất Năng đã không làm cha nuôi mình thất vọng.
Vào năm Tân Mùi (1571) niêu hiệu Sùng Khang thứ 6 đời vua Mạc Mục Tông mở khoa thi Hội, Bùi Tất Năng đỗ đầu, đoạt danh hiệu Hội nguyên, khi đó ông tròn 36 tuổi; vào thi Đình ông xếp 15/17 người đỗ, thuộc bậc Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Nhưng khi Bùi Tất Năng nhận áo mão vinh quy bái tổ về quê, chức sắc thì bị người làng Lầy lấy bùn đổ lên đường cản bước ngựa của tân khoa tiến sĩ chỉ vì khinh ông nhà nghèo. Ông bỏ sang cư trú tại làng Tò, xã Tô Xuyên, tổng Tô Xuyên, huyện Phụ Dực (nay thuộc xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) và sống cuộc đời quan trường nơi ấy.
Ông làm quan đến chức Thừa chính sứ, rồi được thăng làm Thượng thư; ông cũng từng đi sứ sang nhà Minh ở phương Bắc. Sau này, do chán với cảnh triều chính nhà Mạc suy vi, vua tồi quan tối, Bùi Tất Năng từ quan bỏ đi tu ở Lạng Sơn và mất tại đó (không rõ năm). Từ chuyện này mà dân gian có câu ca: “Làng Tò có quan Thượng thư, cắt tóc đi tu xin làm hòa thượng“.
Hai con người, tinh hoa của dân tộc Việt, cùng xuất thân từ cảnh nghèo túng, không một chữ bẻ đôi, nhưng ở họ có một điểm chung để làm nên thành công trong cuộc đời mà rất nhiều người không thể nào ngờ. Đó là sự quyết tâm cao, là ý chí kiên cường, kiên trì vượt lên mọi khó khăn, gian khổ của hoàn cảnh. Họ chính là những tấm gương sáng cho mỗi thế hệ người Việt Nam học hỏi muôn đời, để làm rạng danh nước Việt, một đất nước tuy nghèo khó nhưng có trí thông minh lạ kỳ và ý chí hơn người.